Nghi thức Trai đàn chẩn tế là phương thức siêu độ, bạt độ cô hồn, vong linh, âm linh mà ta thường thấy ở các chùa, tự viện và các tịnh thất hay làm vào những ngày lễ trọng.. Đặc biệt là Trai đàn chẩn tế thường được tổ chức lớn nhằm vào việc siêu độ các vong linh mang tính cách (nhân văn xã hội) cao
Các biện pháp phòng bệnh chủ yếu là đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, sử dụng bảo hộ lao động khi làm việc có tiếp xúc với đất, bùn, nước bị nhiễm khuẩn hoặc trong môi trường không đảm bảo vệ sinh, vệ sinh diệt khuẩn vết rách da, trầy xước hoặc bỏng bị nhiễm bẩn và thực hiện ăn chín uống chín…
Mới đây, tại Diễn đàn "Bất động sản Miền Trung 2022: Xu hướng phát triển và lựa chọn đầu tư", các chuyên gia BĐS nhận định, từ thực tiễn thị trường BĐS Việt Nam nói chung và bất động sản miền Trung nói riêng hiện đang có rất nhiều cơ hội và thách thức.
Tuần chiếu là nghi thức truyền thống trong Đại giới đàn, là một trong những sinh hoạt quan trọng của Phật giáo nhằm nhắc nhở giới tử quan sát những việc còn phóng túng, giúp giới tử sinh hoạt đúng thanh quy. Qua đó, cảnh tỉnh và sách tấn giới tử nỗ lực tu tập và thanh lọc thân tâm.
Nhằm cập nhật kiến thức cho y, bác sĩ trong chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp theo Quyết định số 5904/QĐ-BYT. Ngày 29/10/2020, Sở Y tế phối hợp với Hội Y học tỉnh và công ty Dược phẩm SERVIER tổ chức tập huấn "Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh tăng huyết áp" cho 50 học viên là lãnh
Do đó, cần chuyển giao công nghệ và kiến thức giữa các nước G20 nhằm cải thiện khả năng tiếp cận toàn cầu thông qua phát triển các trung tâm sản xuất dược phẩm. Ngoài ra, cần mở rộng các trung tâm sản xuất vắc-xin, thuốc và chẩn đoán toàn cầu ở các nước có thu nhập trung bình thấp, củng cố mạng lưới các nhà nghiên cứu sức khỏe cộng đồng toàn cầu.
9o0749j. Sau hàng nghìn năm du nhập vào nước ta, Phật giáo đã được đông đảo cư dân Việt tiếp nhận, vì Phật giáo không chỉ lý giải các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, mà còn có những hoạt động thực tế giúp giải quyết những mâu thuẫn xã hội. Trong số đó có lễ cúng chẩn tế, nghi thức này tuy chưa diễn tả hết tinh thần và tư tưởng Phật giáo, nhưng là một trong những nỗ lực của Phật giáo theo hệ tư tưởng Bắc truyền, nhằm vận dụng những hoạt động thực tiễn để đưa Phật giáo đến gần hơn với người dân. Phật giáo khi du nhập đến bất kỳ vùng đất nào đều có sự tiếp biến với văn hóa địa phương. Tại Nam bộ, lễ cúng chẩn tế đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa bản địa, đồng thời cũng tạo nhiều ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống cư dân nơi đây. KHÁI NIỆM CÚNG CHẨN TẾ Chẩn tế có nguồn gốc từ chữ Hán, là dùng tiền hoặc thực phẩm, y phục,… để “cứu tế cho dân nghèo đói hoặc gặp tai họa”[1]. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có định nghĩa chẩn tế như sau “chẩn” là phân phát; “tế” là cứu giúp, tế độ, đưa người khác ra khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo[2]. Trong tâm thức chung của cộng đồng, khi nói đến cúng chẩn tế, mọi người thường nghĩ đến cúng cho người chết, hay hiểu đơn giản “cúng chẩn tế là dâng các loại phẩm vật cho người đã chết”. Tuy nhiên, lễ cúng chẩn tế không chỉ cho người quá cố mà còn đáp ứng yêu cầu của người sống, là một phần trong lễ cầu an và cầu siêu. Về niên đại lễ chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện chưa có một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn là “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. QUY TRÌNH THỰC HIỆN LỄ CÚNG CHẨN TẾ Quy trình này được sử dụng trong lễ cúng kỳ siêu bạt độ, dành cho những vong hồn đang chịu khổ ở địa ngục hoặc chết oan ức. Nghi thức chẩn tế cô hồn ở Việt Nam hiện gồm ba loại Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa còn gọi là Tiểu Mông Sơn. Chữ “khoa” ở đây có thể hiểu là trình tự, các bước tiến hành nghi lễ. Đại khoa hay còn gọi là Khoa Du Già, được thực hiện ít nhất 6 giờ đồng hồ. Trung khoa là phần lược của Đại khoa, gồm hai phần Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; còn Đàn hạ là phần thỉnh Thập loại cô hồn. Tiểu khoa là nghi lễ cúng cô hồn vào mỗi buổi chiều tại các chùa theo Phật giáo Bắc tông. Đây vốn xây dựng theo tinh thần của Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Kinh, sau này được phát triển thêm với tên gọi mới “Mông Sơn Thí Thực Nghi”, nghĩa là ngoài việc chú trọng cúng thí thức ăn, còn có phần quy y và thuyết giảng cho vong linh nghe. Trong các đàn Đại khoa và Trung khoa đều có phần “nhập Tiểu Mông Sơn”, chính là nghi thức Tiểu khoa này. Lễ cúng chẩn tế có hai phần chính là mật pháp và hiển pháp. Trong đó, mật pháp thuộc về các ấn chú và quán tưởng. Hiển pháp gồm các bài kinh chú, hành động cử chỉ… mà mọi người có thể thấy và hiểu được. Sự gia giảm trong các đàn chủ yếu ở phần hiển pháp, riêng tâm pháp tuyệt đối không được lược giảm. Một ban kinh sư thường có 5 – 7 vị gồm Sám chủ hay Đàn chủ, Đàn cả hoặc Thầy cả; Duy na kinh sư đánh chuông; Duyệt chúng kinh sư gõ mõ; Vĩ thuận và Vĩ nghịch hai vị kinh sư đánh đẩu; Bốn Trung phan các vị kinh sư tụng kinh, hòa, tán; Phi chung kinh sư đánh chuông lớn; Phi cổ kinh sư đánh trống lớn. Lễ Thượng phan Sơn Thủy Để triệu thỉnh tất cả hương hồn đã vong thân trên không, trên lộ, dưới nước về tại địa điểm có cây phan. Sau đó, sẽ được đưa vào đàn tràng để tham dự pháp hội, nghe pháp âm của Đức Phật mà tỉnh ngộ để thoát khỏi cảnh khốn cùng. Nghi thức Kiết giới Đàn tràng Cả dưới đất lẫn trên không đều quy định khu vực đàn tràng, kiết giới là biến đổi nơi lập đàn tràng thành chốn trang nghiêm thanh tịnh. Lễ Hạ phan Sơn Thủy Thỉnh chư hương linh dựa vào Thần Phan, theo tiếng niệm Phật tiếp dẫn để an tọa tại đàn tràng. Lễ Hưng Tác Thượng đại Tràng phan Sau khi an vị Phan Sơn Thủy xong, lễ Hưng Tác bắt đầu để cáo với giang sơn, hồn thiêng đất nước, chư Hộ pháp Long thần và Thổ địa Tôn thần tại nơi diễn ra buổi lễ biết rõ thời gian, địa điểm tổ chức trai đàn. Đồng thời, hướng dẫn âm linh cô hồn về dự trai đàn, theo lời triệu thỉnh trong Đại Tràng phan dài 36m, được viết bằng chữ Hán trên giấy ngũ sắc. Lễ Bạch Tổ, Bạch Phật, Khai Kinh Cung thỉnh chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức quang lâm bảo điện để cung hành nghi lễ, Thỉnh Tiêu Diện Đại Sĩ. Lễ Giải Oan Bạt Độ Là nghi thức giải oan đoạn nghiệp. Đây là giây phút người sống và kẻ chết đều mong mỏi. Trước giờ hành lễ, tất cả trai chủ, Phật tử đều tập trung đầy đủ tại chánh điện hoặc nơi làm lễ để cung thỉnh vị Sám chủ và Ban kinh sư quang lâm cử hành lễ. Trong lễ Bạt Độ, đặc biệt nhất là nghi thức phá ngục để cứu hương linh đang chịu khổ trong đó ra. Khi ấy sẽ có một vị tu sĩ hoặc người đời đóng vai chèo đò đưa các thầy sang sông cứu vớt hương linh. Nghi thức này không phổ biến, chỉ khi nào gia chủ có nhu cầu và thường được thực hiện ở miền Trung. Ở miền Nam thay vào đó là nghi thức Phát Tấu, gồm phần Xá Hạc chim Hạc và Xá Mã ngựa, nhờ hai con vật này chở tấu chương về tâu các nơi như thiên đình và thủy cung. Đại lễ Trai đàn Chẩn tế Các vị Gia Trì Sư và kinh sư sẽ cung hành nghi thức Tham lễ Giác Hoàng lễ Phật. Tham lễ xong, vị Gia Trì Sư và chư vị kinh sư đi trước; gia chủ và những người khác đi sau ra ngoài đàn, đến trước án Tiêu Diện, Địa Tạng, Ngũ Phương Phật để cung thỉnh chư Phật chứng minh đàn tràng. Tiếp theo, đến Bàn Giác Hoa tiến hành nghi thức thỉnh vị Gia Trì Sư lên bảo tọa, thay Phật thuyết giới cho âm linh cô hồn. Sau đó, Ngài kiết ấn, niệm chú vào sư tử tòa, bảo tọa, màn song khai và chính tự thân trước khi ngồi kiết già trên bảo tọa. Màn song khai mở ra, nghi thức chẩn tế bắt đầu sái tịnh, cung thỉnh chư Phật và Bồ tát chứng minh, thỉnh chư hương linh và 12 hạng cô hồn cùng đến dự. Tiếp theo là nhập Tiểu Mông Sơn để biến hóa thức ăn phù hợp và dư đủ cho các hạng cô hồn dùng. Sau đó, sẽ rưới nước Cam lộ, vị Tả chức nhận bình nước đã làm phép từ Sám chủ đi từ từ đến phía trước và rưới nước. Tại vị trí đó, nhiều Phật tử chuẩn bị sẵn vật dụng để hứng nước Cam lộ[3]. Tiếp theo là hồi hướng công đức, cầu cho tất cả chúng sanh an lành, sanh về cực lạc. Sau khi hạ đàn, chư Tăng trở về nội đàn, đến bàn Phật làm lễ Tạ Phật hoàn Kinh, lễ đến đây hoàn mãn. Ngoài ra, lễ cúng còn có các phần phóng đăng, phóng sinh… BỐ TRÍ ĐÀN TRÀNG TRONG LỄ CÚNG CHẨN TẾ Được chia thành hai phần nội đàn và ngoại đàn. Nội đàn gồm Bàn Phật chùa có chánh điện, tư gia có bàn thờ Phật là nơi tham lễ Giác Hoàng; bàn kinh nơi để chuông, mõ, pháp khí. Ngoại đàn gồm Màn Sư tử tòa bức màn có hình sư tử dáng vẻ oai nghiêm, treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật; Bảo tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, đại diện chư Phật để hoằng dương chánh pháp; Màn song khai bức màn chia đôi trước bảo tọa, đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định của khoa nghi; bàn Kim đài kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hoặc bốn vị; Bàn Giác Hoa Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một Đức Phật ở cõi Ta bà; các án Ngũ phương Phật gồm năm bàn thiết trí theo hướng Đông – Tây – Nam – Bắc và Trung ương; bàn Hộc thực vị trí thấp, để bài vị và đồ cúng cô hồn; bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng, thiết trí ba tượng Địa Tạng, Tiêu Diện và Hộ Pháp nên còn gọi là bàn Tam Bảo ngoại. Vật phẩm trong đàn cúng chẩn tế chia làm hai phần 1. Cung thỉnh chư Phật, Bồ tát, thần thánh… triệu thỉnh chư hương linh, vong hồn. 2. Vật phẩm cúng thường có 6 loại hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, gọi chung là lục cúng. Thức ăn cúng Phật chỉ gồm đồ chay, thường là cơm và xôi chè. Riêng với thần thánh thì tùy người tổ chức, có thể cúng cả chay và mặn, ngoài ra còn có lá phan và bảo cái. Thực phẩm cúng cho nhóm đối tượng thứ hai rất đa dạng. Ngoài hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, còn có một số khác bắt buộc, như gạo, muối, cháo loãng, cốm nổ, xôi chè, tiền cúng, mía, các loại khoai,… tùy vào gia chủ mà có thêm vàng mã. Riêng miền Bắc sẽ có oản. Tùy điều kiện gia chủ, có thể thêm nhiều đồ cúng khác như kẹo bánh, áo quần thật. Vật cúng có thể treo lên “cộ” giá đỡ hình chóp, bằng tre, dán giấy bên ngoài hoặc xếp trên mâm và bàn. Đặc biệt, nghệ thuật diễn xướng trong lễ cúng là đỉnh cao về nghệ thuật diễn xướng của âm nhạc Phật giáo. Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Khê, “… nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru và những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng…. Có hai điệu thức chính được dùng điệu Thiền dùng hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam và điệu Ai. Các điệu thay đổi tùy theo nội dung bài” [4]. Trong một lễ cúng, về phía ban kinh sư, một vị đàn chủ phải đầy đủ oai nghi phẩm hạnh, chất giọng tốt, am tường chữ Hán và nghệ thuật diễn xướng. Các lối diễn xướng được sử dụng trong lễ cúng gồm Bạch, Nói, Thỉnh, Nguyện, Đọc, Tụng, Vịnh, Tán. Để một lễ cúng chẩn tế thành công, phải đầy đủ yếu tố hình thức và tâm thức. Về hình thức, đây là lễ cúng theo nghi thức quỷ của Mật tông Tây Tạng, nên đàn tràng phải đúng pháp thức của khoa nghi Mật giáo. Về tâm thức, ban kinh sư và gia chủ cùng những người tham gia phải có sự chuyên tâm. Đàn tràng càng đông người thuộc mọi giới tham dự, càng vận động được nhiều sức mạnh ủng hộ của tập thể. Trong lễ cúng, nếu gia chủ và những người đến dự đều vui vẻ, hài lòng, toàn tâm toàn ý cầu nguyện, kết hợp với sự tinh chuyên của ban kinh sư sẽ giúp ích cho cả người sống lẫn người chết. Ở miền Trung và miền Nam, lễ cúng chịu ảnh hưởng dòng thiền Lâm Tế. Nhà sư Nguyên Thiều và các đệ tử là những người đầu tiên đưa lễ này vào Đàng Trong. Tại đây, lễ cúng chủ yếu dựa vào bản kinh “Chánh khắc Trung khoa Du Già tập yếu”, rút gọn từ “Du Già diệm khẩu thí thực đàn nghi” của sư Vân Thê Châu Hoằng. Tùy từng vùng, lễ cúng còn chịu ảnh hưởng của thổ âm địa phương. Trang phục và pháp khí trong lễ cúng chẩn tế Nam bộ cho thấy hiện tượng giao lưu văn hóa mạnh mẽ và mang đậm dấu ấn vùng miền. ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ CÚNG CHẨN TẾ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA PHẬT TỬ NGƯỜI VIỆT NAM BỘ Nam bộ với điều kiện tự nhiên và thành phần dân cư đa dạng đã hình thành những đặc điểm văn hóa khác nhau, trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng hành với quá trình phát triển đó, lễ cúng chẩn tế cũng đóng góp những giá trị thiết thực vào đời sống nhân dân nói chung và Phật tử nói riêng. Trong đời sống cá nhân Quan niệm coi trọng người đã khuất, các bậc tiền bối,… đã chứng minh cho tấm lòng thương nhớ, tính nhân bản của con người. Đó còn là sự cầu mong cuộc sống bình an, thể hiện yếu tố trọng lý và trọng tình trong văn hóa phương Đông. Mặt khác, tâm lý tiếc thương người thân đã mất đưa đến suy nghĩ người thân có thể đang chịu cảnh thiếu thốn, khổ đau và cần sự giúp đỡ. Với cư dân Nam bộ, đặc biệt ở buổi đầu đất rộng người thưa, nhiều thú dữ và bệnh dịch, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình do vậy rất quan trọng. Sự ra đi vĩnh viễn của bất kỳ thành viên nào cũng khiến gia đình hụt hẫng, trống vắng. Ngoài ra, việc thường xuyên di chuyển chỗ ở khiến mồ mả người thân không có điều kiện trông nom. Vì vậy, việc tổ chức lễ cúng tưởng nhớ người thân đã khuất, cầu mong được cảm thông và tha thứ, mong giải tỏa oan khuất, dằn vặt, cầu nguyện cho họ được thanh thản siêu thoát, cầu xin người đã khuất phù hộ cho người sống bình an vô sự là chuyện nên làm khi điều kiện cho phép. Trong đời sống cộng đồng Ở cư dân nông nghiệp, yếu tố cộng đồng rất quan trọng, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Lễ cúng chẩn tế để cầu an hay cầu siêu, dù do cá nhân hay tập thể tổ chức, cũng phải đủ ba hoạt động cúng Phật, cúng những vị thần ở địa phương diễn ra lễ cúng thần Thành Hoàng Bổn Cảnh và cúng hương linh, vong linh, tri ân các anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn trong các cuộc chiến tranh và thiên tai bão lũ, cầu mong cho họ được sanh về cảnh giới an lành. Đặc biệt, trong các lễ cúng do cá nhân tổ chức, ngoài tên của người được cúng chính và ông bà tổ tiên gia chủ, những người đến tham gia cũng được khuyến khích gửi tên thân nhân của mình để cầu siêu. Về tâm linh, một gia đình hay tập thể tổ chức lễ cúng thì lợi ích cho cộng đồng lớn hơn, chứ không đơn thuần chỉ cho đối tượng được xướng danh, như người xưa có câu “nhất nhơn tác phước thiên nhơn hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương” một người làm việc tốt nhiều người hưởng chung, trong vườn có cây hoa nở hoa thì cả vườn thơm lây. Về thực tế, khi tổ chức một lễ cúng cần huy động rất nhiều người, ngoài những người gửi tên cầu siêu ra, những người không gửi hoặc là Phật tử cũng có thể đến giúp đỡ. Trong khi cử hành lễ cúng, về lý, vị Sám chủ đội mão Tỳ lư, mặc y gấm, là hình ảnh Bồ tát Địa Tạng đại diện cho Phật thuyết pháp và bố thí thức ăn cho vong hồn. Nhưng ở góc độ phi tôn giáo, hình ảnh thầy sám chủ mặc trang phục đẹp, ban kinh sư dùng pháp khí với nhạc lễ xung quanh,… tất cả những yếu tố đó tựa như một hình thức diễn xướng nghệ thuật. Không chỉ đối với Phật tử người Việt, lễ cúng chẩn tế còn là cơ hội giao lưu giữa các cộng đồng cư dân Chăm, Khmer, Hoa, Việt… trên vùng đất Nam bộ. Về tôn giáo, lễ cúng chẩn tế thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo. Một việc làm vì nhiều người, không chỉ riêng cho cá nhân nào. Một lễ cúng không chỉ phục vụ nhu cầu thiết thực của gia chủ, mà còn hướng lợi ích an lạc cho nhiều đối tượng khác. Có thể nói, được truyền vào Nam bộ từ thuở sơ khai, lễ cúng chẩn tế đã tồn tại và tiếp sức người dân và những Phật tử nơi đây. Trong đời sống, với hoàn cảnh khó khăn ở vùng đất mới, việc tổ chức cầu an, cầu siêu giúp người sống vơi bớt phần nào khổ đau, mất mát. Những hiểm họa bất an nơi vùng đất mới hoang vu cũng làm cho người dân canh cánh nỗi lo, nỗi sợ hãi, việc tổ chức lễ cúng chẩn tế ngoài mong muốn giúp người chết giải thoát, còn là khát vọng cho người sống được yên ổn, tránh bệnh tật và làm ăn thuận lợi. Lễ cũng là cơ hội để mọi người có dịp gần gũi, tìm hiểu và thông cảm nhau hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, những tiết tấu diễn xướng trong lễ cúng cũng góp phần làm cho cuộc sống người dân bớt đi sự buồn tẻ nơi đất lạ. Tồn tại và phát triển ở Nam bộ, lễ cúng chẩn tế tiếp thu những yếu tố văn hóa địa phương, đồng thời chịu tác động từ các yếu tố khác như hoạt động kinh tế, bối cảnh chính trị – xã hội, điều kiện tự nhiên,… Lễ cúng chẩn tế cũng phần nào phản ánh mối quan hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa của các cộng đồng dân tộc cùng sống cộng cư hoặc cận cư ở Nam bộ. Chú thích * Đào Ngọc Lam Phương – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG TP HCM. [1] Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, [2] Thích Nhất Hạnh 2007, Đại trai đàn bình đẳng tế xuân Đinh Hợi 2007 tại Việt Nam, [3] Quan niệm cho rằng nước Cam lộ giúp người uống hoặc sử dụng được khỏe mạnh. [4] Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001, Tài liệu tham khảo 1. Dương Chí Cang 2000, Nghiên cứu chế độ lễ nghi Trung Quốc, Nxb ĐHSP Hoa Đông. 2. Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001. 3. Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 4. Trần Hồng Liên 2007, Quá trình hình thành và phát triển nhạc lễ Phật giáo Nam bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Sư Nguyệt Chiếu với sự nghiệp nhạc lễ cổ truyền Nam bộ”, Nxb Văn hóa Thông tin.
Ý Nghĩa Lễ Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn Tỳ kheo Thích Ngộ Định Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính thưa toàn thể quý Phật tử, quý đồng hương thân hữu, Hôm nay, chùa Từ Quang tổ chức Đại lễ kỷ niệm Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đản sanh, lễ cung nghinh an vị Tôn tượng chư Phật và Bồ tát. Vì lòng từ bi rộng lớn, nghĩ đến chư hương linh, chư âm linh cô hồn không nơi nương tựa trong chốn Già lam Từ Quang và toàn thể vùng Garland, Nhị vị Trú Trì chùa Từ Quang đã thiết lập đàn tràng Chẩn tế cô hồn, một lòng thành tâm cung thỉnh chư tôn đức Tăng vân tập về đây hành trì pháp sự khoa nghi, để cầu siêu độ cho chư hương linh, chư âm linh cô hồn, chúng sanh đang chịu khổ hình trong ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… chúng tôi có duyên được nhị vị Trú Trì cho phép nói đôi điều về ý nghĩa chẩn tế cô hồn với quý Phật tử. Trong thời gian hạn hẹp, không thể trình bày một cách chi tiết về khoa nghi chẩn tế, cách thức hành trì Pháp sự, mà chúng tôi chỉ nói ngắn gọn về ý nghĩa, tác dụng và lợi ích của khoa nghi chẩn tế mà thôi. Lời đầu tiên chúng tôi muốn nói là vô cùng hoan hỷ với việc làm đầy lòng từ bi, có ý nghĩa tác động đến tâm thức chúng sanh ở cả cảnh giới người còn, kẻ mất của Quý Thầy chùa Từ Quang. Chúng tôi thành tâm cầu nguyện cho Phật sự được viên thành, cầu nguyện chư hương linh của quý Phật tử, chư âm linh cô hồn, oan hồn uổng tử bị chiến tranh, biến động thiên tai, những hương linh trầm mình trong biển cả trên con đường vượt biển tìm tự do và chân lý đều được siêu sanh về miền tịnh cảnh. Kính thưa quý vị, Nói đến khoa nghi chẩn tế âm linh cô hồn thì không thể không nói đến nghi lễ của Phật giáo. Nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo trên thế giới đều đồng ý rằng một tôn giáo phải có đủ ba yếu tố triết học, nghi lễ và thần thoại. Phật giáo là một tôn giáo nên Phật giáo cũng có đầy đủ ba yếu tố trên. Tuy nhiên, Phật giáo là tôn giáo không có thượng đế nên yếu tố nghi lễ và thần thoại của đạo Phật mang sắc thái và ý nghĩa khác với các tôn giáo khác. Vậy yếu tố nghi lễ trong đạo Phật được định nghĩa như thế nào? Nghi có nghĩa là nghi thức, khuôn phép, dáng mẫu… Lễ là lễ giáo, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính… Vậy nghi lễ có ý nghĩa rất rộng, bao trùm cả hành vi, thái độ, văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ, phong cách của con người trong xã hội. Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo. Nghi lễ của Phật giáo thường đi đôi với nhạc lễ – nhạc, tùy theo truyền thống văn hóa nghệ thuật của mỗi miền mà nghi lễ Phật giáo sẽ ảnh hưởng truyền thống văn hóa của miền ấy. Ví dụ âm điệu tán tụng và nhạc của chư Tăng xứ Huế thì mang sắc thái âm nhạc cung đình với những điệu Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy… Nghi lễ Phật giáo của chư Tăng miền Bắc thì âm hưởng lại mang màu sắc của tuồng chèo, có một số bài tán tụng mang âm hưởng của Quan họ Bắc Ninh… trong khi những điệu tán, tụng, xướng kệ của chư Tăng miền Nam lại mang sắc thái cải lương, tuồng cổ… Nói chung, nghi lễ Phật giáo mang màu sắc lễ nhạc cổ truyền của dân tộc, đậm nét văn hóa truyền thống, cần phải tôn trọng và giữ gìn. – Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm, người tu tập dựa vào đức tin để có những tiến hóa về mặt tâm linh mà trong kinh Trung Bộ Đức Phật gọi là quả vị tu chứng “tùy tín hành” là một trong bảy quả vị, quả vị này thuộc về tình cảm hay niềm tin đối với Tam ý nghĩa đó thì nghi lễ là món ăn tinh thần không thể thiếu của người Phật tử. – Nghi lễ nghệ thuật hóa triết lý Nền triết lý của đạo Phật rất cao siêu, không phải người nghiên cứu một sớm một chiều mà có thể hiểu và quán triệt được toàn bộ. Vì vậy đối với người bình dân khó có thể thâm nhập khi bước đầu học Phật được tức khắc. Nghi lễ là con đường đưa người vào đạo bằng con tim, chứ không phải bằng khối óc. Thông qua nghi lễ, đạo lý cao siêu được cảm nhận. triết lý được nghệ thuật hóa một cách nhẹ nhàng và mang âm hưởng của văn thơ, ngôn ngữ, diễn tả cảnh tình hết sức thanh thoát. Thi sĩ không cần dùng nhiều từ ngữ để bày tỏ tâm tư tình cảm…. Quý vị thử tìm hiểu trong nghi Chẩn tế cô hồn sẽ thấy rõ văn thơ tả cảnh tuyệt vời “Từng nghe rằng mặt trời gác núi, tối sáng giành nhau. Bầu trời đầy sao, thế giới bùng lên ánh lửa lửa tham lam, sân hận, si mê. Từng đàn chim bay về tổ ấm, kẻ nông phu người ngựa dắt díu nhau về. Trên chòi cao đầu làng, thỉnh thoảng điểm trống cầm canh, dưới bờ suối róc rách tiếng gió lùa vào ngọn cỏ. Lầu cao đã kín cổng, chòi cỏ cũng thâm u. Chính lúc này là thế giới của ngạ quỷ, vì vậy nên mở lòng từ khai đàn pháp sự để cứu độ chư âm linh oan hồn uổng tử.” Ngôn ngữ và âm nhạc đã góp phần làm cho nghi Chẩn tế cô hồn được cảm nhận bằng trực giác hay tình cảm chứ không bằng suy tư, lý luận. – Nghi lễ là phương tiện độ sanh Có những người không bao giờ đến chùa để quỳ lạy hay tụng kinh, có những người không bao giờ chịu nghe giảng Pháp… có lẽ nhân duyên chưa có. Nhưng khi có dịp ma chay, đám giỗ, quý Thầy giúp đỡ lễ tang, từ đó họ phát tâm đi chùa, tụng kinh niệm Phật, nghiêm tầm kinh lý. Đó là một phương tiện độ sanh hữu hiệu. – Nghi lễ làm trang nghiêm tâm và đạo tràng Một cuộc lễ đúng cách có thể làm cho tâm hồn định tĩnh, chuyên chú trang nghiêm. Khung cảnh của nghi lễ làm cho người đi vào quy củ, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt một cách tự nhiên. Theo kinh “Phật thuyết cứu bạt diệm khẩu đà la ni chú”, sách “Thí ngạ quỷ ẩm thực cập thủy pháp”, “ Du già tập yếu cứu A Nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh” và “Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi” có viết rằng Một hôm nọ, ngài A Nan đang nhập thiền định thì một vị ngạ quỷ Diệm Khẩu xuất hiện và nói với ngài A Nan rằng, trong ba ngày nữa ngài A Nan sẽ chết, nếu muốn vượt qua khổ nạn này thì nên đem thức ăn, nước uống nhiều bằng số cát sông Hằng để bố thí cho các loài ngạ quỷ đang đói khổ. Xuất thiền, Ngài A Nan vô cùng lo âu, tự nghĩ rằng thân xuất gia, ngày ngày đi khất thực của đàn na tín thí, làm sao có đủ phẩm vật để cứu vớt chúng ngạ quỷ được đây. Ngài trình lên đức Phật. Đức Phật khuyên ngài A Nan chớ có lo sợ và dạy rằng “Trong một kiếp về quá khứ, đức Phật sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, và đã được học hỏi pháp bí yếu chân ngôn Đà la Ni có tên là Biến Thực Biến Thủy chân ngôn. Pháp này có thể trì tụng, thân khẩu ý thanh tịnh, biến một thành mười, mười thành trăm vạn ngàn ức, nhiều bằng số cát sông Hằng để có thể cứu giúp các loài ngạ quỷ đang đói khổ.”. Và đức Phật đã truyền lại cho ngài A Nan để cứu khổ ngạ quỷ. Từ đó về sau, mỗi lần thọ trai, các đệ tử của Phật thường sớt phần ăn của mình lại để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Mãi về sau, chư Tổ sắp xếp lại theo thứ lớp cúng Phật, cúng Tổ, thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực cô hồn là một phần không thể thiếu trong hành trì thiết yếu hằng ngày vào thời công phu chiều. Tại Việt Nam, bất cứ thời gian và không gian nào, khi trong tư gia có đám giỗ, ma chay đều có cúng thí thực cô hồn. Đơn giản thì một mâm nhỏ, 1 nồi cháo trắng gọi là cúng cô hồn, cúng kẻ khuất mặt mày, không nơi thờ tự, không người cúng tế để thể hiện lòng từ bi của đạo Phật. Đến đời nhà Tống, Cam lồ Pháp Sư lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh núi Mông thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Phần khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời cầu nguyện tóm lược như sau 1. Trình bày tất cả do tâm tạo qua bài kệ Hoa nghiêm Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo. 2. Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải sạch oan khiên qua thần chú Phá Địa ngục chân ngôn, phổ triệu thỉnh chơn ngôn, giải oan kết chân ngôn…. 3. Cung thỉnh mười phương Tam Bảo, Đức Thích Ca, Đức Quán Âm, Đức Địa Tạng, và ngài A Nan giáng lâm đàn tràng chứng minh. 4. Hướng dẫn chúng sanh quy y Tam Bảo. 5. Sám hối nghiệp chướng Tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình, bao gồm cả người cúng và người được cúng phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc. 6. Phát đại nguyện thề cứu độ hết chúng sanh, thề phá hết phiền não, nguyện học các pháp môn tu tập, thề nguyện thành Phật đạo. 7. Diệt tội Thành tâm sám hối, phát đại nguyện và hành giả tụng các thần chú mới có linh cảm như chú Diệt Định nghiệp chơn ngôn của Ngài Địa Tạng, Diệt bất định nghiệp chơn ngôn của Ngài Quán Âm. 8. Tuyên thuyết định giới Thần chú khai yết hầu chơn ngôn và Tam Muội gia giới chơn ngôn để chúng sanh diệt trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu thọ hưởng pháp thực, thọ xong giữ giới để thoát phiền não nghiệp chướng. 9. Biến thức ăn thành pháp vị Biến thực chơn ngôn, biến thủy chơn ngôn, nhất tự thủy chơn ngôn, nhũ hải chơn ngôn khiến cho chúng sanh ngạ quỷ thọ hưởng được sung mãn. 10. Kết nguyện thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả chúng sanh cô hồn đã no đủ, xả hết tâm tham lam mau thoát cảnh địa ngục u đồ, trì chú “Vô giá thực chơn ngôn” phá tan sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thọ hưởng cam lồ pháp vị. 11. Hồi hướng Cầu cho tất cả chúng sanh an lành, vãng sanh cực lạc. Khoa nghi chẩn tế cô hồn có ba điểm 1 tâm thành 2 kinh chú 3 thân khẩu ý thanh tịnh. Chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan hồn uổng tử, chết bất đắc kỳ tử, bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không nơi nương tựa. Không những cúng tiến thức ăn nước uống mà còn gia trì Pháp sự, thực hành mật tông, một lòng cầu mong cho chư vị thoát khỏi cảnh khổ, nghiệp ác của cõi ngạ quỷ được tiêu trừ. Một khoa nghi rất nhiều lợi lạc nhưng rất khó hành trì, vì đòi hỏi sự tinh thông cả hai mặt kinh điển và mật điển. Mật điển của khoa Du Già chẩn tế cô hồn là Tam Mật đồng tu – Thân kết ấn thì thân nghiệp thanh tịnh không tạo các tội ác. – Miệng niệm thần chú thì khẩu nghiệp thanh tịnh, không nói các lời ác. – Ý quán tưởng thì ý nghiệp thanh tịnh không nghĩ các điều ác. Khi cả thân khẩu ý đều thanh tịnh thì gọi là Tam mật tương ưng, hòa nhập vào cảnh giới của chư Phật, chư Bồ Tát. Chư Kinh sư trong trai đàn thành tâm cầu nguyện mười phương Chư Phật gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi tam tâm từ bi, hỷ xả, bình đẳng để độ thoát chúng sanh trong cõi địa ngục ngạ quỷ, súc sanh tam đồ ác đạo. Có thể nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương gian đồng lợi lạc. Vì vậy vị chủ sám gia trì sư và chư vị kinh sư phải là những người hành trì và giới hạnh nghiêm minh, luôn thanh tịnh thân tâm, đủ sức thần giao cách cảm trong lời chú nguyện khiến thức ăn biến thành Pháp vị để chúng sanh trong các loài ngạ quỷ được thọ dụng và nhờ vào công đức lực cầu nguyện mà cô hồn được siêu sanh tịnh độ. Trong đạo Phật có vô lượng pháp môn tu tập. Mỗi pháp môn tu tập đều tùy theo khả năng lãnh ngộ và căn cơ của mỗi chúng sanh. Nhưng tất cả các pháp môn đều đưa hành giả đến mục đích cuối cùng là đạo quả giải thoát. Có người thích pháp môn Thiền tập, có người thích lễ lạy xưng dương tán thán hồng danh chư Phật, có vị thích pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh, có người thích pháp môn Mật tông để đi hành trì khoa chú…. Chọn pháp môn nào để tu tập là tùy theo căn tánh của chúng sanh. Chúng ta không thể phân biệt pháp môn nào hơn pháp môn nào, hoặc cho rằng pháp môn nào chánh thống, pháp môn nào dị biệt cả. Cũng như con đường đến chùa Từ Quang. Có người thích đi xe hơi, có người đi bộ, có người đi xe bus. Đi bằng phương tiện gì không quan trọng. Quan trọng là có đi đến chùa bằng tâm thành hay không? Và cho dẫu tu pháp môn nào đi nữa thì Thiền-Tịnh -Mật Tam mật phải tương ứng. Có nghĩa là thân khẩu và ý phải thanh tịnh, mới mong thoát khỏi phiền não và an lạc giải thoát thật sự. Trong thời gian 45 phút hạn hẹp, chúng tôi không thể trình bày một cách sâu rộng để đáp ứng lòng mong mỏi của quý vị về khoa nghi chẩn tế cô hồn. Hy vọng có dịp chúng tôi sẽ trình bày nhiều hơn. Vì khoa nghi chẩn tế là một thế giới Mật tông, đòi hỏi phải có sự tu trì và nghiên cứu nghiêm minh. Chắc chắn rằng chúng tôi đã thiếu sót vì trí lực còn non nớt, mong quý vị hoan hỷ lượng thứ. Cuối cùng, chúng tôi thành tâm cầu nguyện hồng ân mười phương Tam Bảo gia hộ cho chư Tăng và Phật tử chùa Từ Quang thân tâm an lạc, Phật sự viên thành, nguyện chúc ngôi già lam Từ Quang ngày một xương minh. Mang ánh sáng trí tuệ, từ bi của đạo Phật chiếu rọi vào cõi u đồ tăm tối, để cứu vớt chúng sanh đang lặn ngụp trong cõi trầm luân đồng thành Phật đạo. Nam mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát Tác Đại Chứng Minh.
1. Dẫn nhập Trong chân lý giới hạn chân lý thế gian hay tục đế, saṁvṛti-satya, thế giới quan của Phật giáo gồm có ba cõi trayo dhātavaḥ là - Dục giới kāma-dhātu, - Sắc giới rūpa-dhātu - Và vô sắc giới ārūpya-dhātu; Hay lục đạo ṣaḍakula là - Địa ngục đạo narakagati, - Ngạ quỷ đạo pretagati, - Súc sanh đạo tiryagyonigati, - A-tu-la đạo asura-gati, - Nhân gian đạo manuṣya-gati - Và Thiên đạo deva-gati. Tam giới hay lục đạo luân hồi có vô lượng vô biên thế giới. Mỗi thế giới cũng có vô lượng vô biên chúng sinh sinh sống. Tùy theo nghiệp karman của mình đã gây tạo bằng hành động, lời nói và ý nghĩ thông qua thân kāya-karma, miệng vāk-karma, và ý manas-karma mà chúng sinh nhận lấy một cảnh giới hay một hoàn cảnh sống tương ứng. Nếu nghiệp thiện kuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới thiện, đó là a-tu-la, người và trời; nếu nghiệp bất thiện akuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới bất thiện, đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cảnh giới bất thiện là cảnh giới mà chúng sinh trong đó có hoàn cảnh sống hoàn toàn phải chịu khổ đau, nhưng cảnh giới thiện không có nghĩa là chúng sinh ở trong đó hoàn toàn hưởng thụ hạnh phúc. Theo Phật giáo, chúng sinh sống trong phạm vi ba cõi đều phải chịu khổ đau, mà nỗi khổ đau lớn nhất là phải trôi lăn trong đêm dài tăm tối sinh tử luân hồi. Khổ đau có rất nhiều nguyên do, nhưng gốc rễ chính là tam độc tham lam rāga, giận hờn dveṣa và si mê moha, hay vô minh avidyā. Muốn thoát khỏi khổ đau cần phải nhổ tận gốc rễ tam độc. Mục đích cứu cánh của Phật giáo là ly tham, giải thoát. Để đạt được mục đích cứu cánh ấy, Phật dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn, và pháp môn nào cũng phải đi qua Giới, Định và Tuệ. Tựu trung có ba con đường đi đến giác ngộ giải thoát là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền tông chú trọng tự lực. Tịnh độ tông chú trọng tha lực. Mật tông thì phối hợp cả tự lực và tha lực. Trai đàn bạt độ là một hình thức tổng hợp sức mạnh của tự và tha ấy. 2. Ý nghĩa đàn tràng Trai đàn 齋壇 có nghĩa là một đạo tràng thanh tịnh. Bạt là nhổ lên, độ là vượt qua, thoát khỏi. Trai đàn bạt độ là một đạo tràng thanh tịnh được tổ chức để nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi. Về hình thức, trai đàn được bố trí theo một hình thức đơn giản của một trong hai bộ mạn-đà-la maṇḍala, đó là Kim cang giới mạn-đà-la vajradhātu-maṇḍala biểu tượng cho trí tuệ sở chứng của Phật, hay Thai tạng giới mạn-đà-la garbhadhātu-maṇḍala biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Ngài. A - Kim cang giới mạn-đà-la có dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candra-maṇḍala. Bên trong hình tròn được sắp xếp như sau - Chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ-lô-giá-na, hay Đại Nhật Như-Lai MahāVairocana-Tathāgata. Đó là Pháp thân Phật DharmakāyaBuddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp cả vũ trụ. Trong năm đại pañcadhātu, Ngài biểu tượng cho không đại ākāśadhātu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn vijñāna-skandha. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí dharma-dhātu-svabhāva-jñāna. - Phương đông là A-Súc-Bệ Phật Akṣobhya, hay Bất-Động Như Lai với các biểu tượng Phong đại vāyu-dhātu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn saṃskāra-skandha, động cơ tạo tác của các loại hữu tình; đại viên cảnh trí ādarśa-jñāna, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. - Phương Nam là Bảo Sinh Phật Ratnasambhava với các biểu tượng hỏa đại tejo-dhātu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh và thế giới; tưởng uẩn saưjñā-skandha, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; bình đẳng tánh trí samatā-jñāna, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. - Phương tây là A-di-đà Phật Amitabhā thủy đại ab-dhātu, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn vedana-skandha, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; diệu quán sát trí pratyavekśaṇā-jñāna, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. - Phương bắc là Bất Không Thành Tựu Như lai Amoghasiddhi địa đại pṛthivī-dhātu, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn rūpa-skandha, tác thành thế giới hữu tình; thành sở tác trí kṛtyānuṣṭhāna-jñāna, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sinh. Mỗi đức Như lai đều có bốn Bồ tát thân cận. Tất cả là mười sáu Đại bồ tát. Ngoài ra, nội đàn có bốn cúng và ngoại đàn bốn cúng; tất cả tám cúng dường bồ-tát. Cùng với bốn Nhiếp bồ tát nữa. Cơ bản, Kim cang giới mạn-đà-la có tất cả ba mươi bảy tôn vị. B- Thai tạng giới biểu hiện đại bi tâm của Phật, từ đó lưu xuất tất cả các phương tiện độ sinh. Từ Thai tạng giới, vạn pháp được thai nghén và dưỡng dục, cho đến thành tựu các phẩm chất siêu việt của đại trí và đại bi. Do đó, đàn tràng của Thai tạng giới được hình dung là một đóa sen có tám cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng thịt của chúng sinh. Đại bi tâm không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen, theo ý nghĩa nhân quả đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa phát tâm bồ-đề, ngay lúc ấy Phật quả đã được thành tựu. Bởi vì, trong thể tính tuyệt đối, ý niệm về thời gian và không gian không tồn tại. Từ ý nghĩa đó, tám cánh sen gồm bốn Đại Bồ tát, và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất cả đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở trung tâm của mạn-đà-la. Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Bắc như sau - Phương đông, Bảo Tràng Phật Ratnaketu. Ngài là hình ảnh của bồ đề tâm bodhicitta. Bảo tràng làm tiêu xí cho sự phát bồ đề tâm. Dưới cội bồ đề, Như lai đã dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành tựu Vô thượng Chánh giác. - Phương nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai Kusumita-rāja, an trụ trong ly cấu tam-muội vimala-samādhi, bằng hạt giống bồ-đề tâm mà vun trồng và phát triển thành vô số hành động của đại bi, như đóa hoa nỡ rộ. - Phương tây, Vô Lương Thọ Như lai Amitayus, biểu hiện Báo thân hay Thọ dụng thân của Phật Sambhoga-kāya, kết quả của vô số công đức tu tập, với hình ảnh hoa sen hàm tiếu. - Phương bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật Divyadundubhi, biểu hiệu phẩm tính của Niết bàn; được ví dụ như chiếc trống trời, vốn không hình tướng nhưng âm vang rền xa. Đó là pháp âm của Như lai được công bố. Ở bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát. Phương đông nam, Phổ Hiền Bồ-tát Samantabhadra. Đông bắc, Quán Tự Tại Bồ-tát Avalokiteśvara. Tây nam, Diệu Cát Tường Đồng tử Mañjuśrì-kumàra. Tây bắc, Từ Thị Bồ-tát Maitreya. Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện độ sinh của Phật. Cả hai bộ mạn-đà-la cũng có thể tượng trưng như hai bàn tay. Bàn tay mặt là Kim cang giới. Từ ngón út cho tới ngón cái, theo thứ tự Về năm uẩn, ngón út là sắc uẩn, và lần lượt là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Về năm đại, năm loại trí, và năm vị Như Lai cũng theo thứ tự tương xứng đó. Về các ba-la-mật, tính từ ngón út bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn cho đến ngón cái là thiền định ba-la-mật. Bàn tay trái là Thai tạng giới; cũng tính từ ngón út cho đến ngón cái theo thứ tự, với năm đại, năm uẩn, như bàn tay mặt. Về các ba-la-mật huệ, phương tiện, nguyện, lực và trí. Như vậy, khi hai bàn tay hiệp lại, trọn vẹn cả bi và trí của Phật. Đàn tràng chẩn tế được bố trí dựa trên căn bản vũ trụ luận khái lược, với một ít thay đổi. Đơn giản mà nói, đàn tràng được bố trí như là thâu gọn thế giới vũ trụ thành một thực tế hiện hữu cụ thể trước mắt. Mục đích của sự bố trí này là cốt khai triển năng lực gia trì hổ trợ của Phật adhiṣṭhānādhiṣṭhita. Mật giáo nói Phật thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm siddhaṃ. Tổng hợp sức mạnh của “tam mật du-già” sẽ tác động lên tâm thức của chúng sinh khiến tâm thức ấy chuyển hóa mọi tâm lý tham lam, giận hờn, si mê, biết lắng nghe, thấu hiểu, biết buông bỏ mọi oán thù oan trái… để hướng tâm đến vô ngã, vị tha, và ngay đó chúng sinh được giải thoát. 3. Đối tượng của đàn tràng Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, mà chúng ta vẫn thường nói nôm na là ma hay cô hồn. Đó là những người chết chưa được siêu thoát. Những người đó có thể là cha, mẹ, anh, em, bà con của chúng ta. Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, Đại tạng kinh Đại chính tân tu, tập 21, tr. 483b, liệt kê tất cả mười loại cô hồn, như sau 1. Thủ hộ quốc giới những oan hồn vị quốc vong thân, tức những chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, nhưng nói chung là tất cả những người tử trận ở cả hai đầu chiến tuyến. 2. Phụ tài khiếm mạng chết vì oan gia trái chủ, nợ nần, trụy thai. 3. Khinh bạc Tam bảo bất hiếu, bội nghịch vô đạo. 4. Giang hà thủy nịch thương khách chết sông, chết biển. 5. Biên địa tà kiến những người sống tại biên ải hẻo lánh. 6. Ly hương khách địa cô khổ phiêu bạt, chết đường chết xá, những người vì hoàn cảnh nào đó phải rời bỏ quê hương đi tìm con đường sống, phải vượt biên và đã bỏ mình oan uổng giữa biển khơi muôn trùng… 7. Phó hỏa đầu nhai tự tử, nhảy sông, nhảy núi, chết đâm, chết cháy, chết do tai nạn giao thông… 8. Ngục tù trí mạng chết trong ngục tù. 9. Nô tì kết sứ nô lệ cùng khổ, chết vì đày đọa lao dịch. 10. Manh lung ám á đui, què, câm, điếc, không người chiếu cố. Các khoa nghi khác còn kể thêm một số cô hồn nữa, như vua chúa, quan văn, quan võ của các triều đại, chết do tai nạn bị cướp ngôi hay nuôi mộng nhất thống giang hà nhưng chưa thành tựu; sinh viên học sinh ngày đêm học tập nuôi mộng công danh nhưng nửa chừng chết yểu; các tu sĩ, đạo sĩ vì một số lý do nào đó hoặc chưa ngộ đạo nên cứ quanh quẩn nơi chùa xưa, miếu cũ một thời họ sinh sống. Những chúng sinh trong đường ngạ quỷ phải chịu cảnh sống vô cùng khổ đau. Một mặt, do vì nghiệp duyên đã gây tạo, dù đã chết nhưng họ vẫn cứ mãi ôm ấp hận thù, quyến luyến đời sống thế gian, tham tiếc tài sản… ; một mặt không người thờ cúng, nhớ tưởng nên họ sống trong cảnh lạc loài, bơ vơ, chẳng người thương nhớ, chẳng chỗ nương nhờ, chẳng người cúng tế… Do đó, chúng sinh trong đường ngạ quỷ đói khát về vật chất lẫn tinh thần. Đức Phật với tấm lòng từ bi mẫn, xót thương tất cả chúng sinh, nên đã phương tiện thuyết ra nhiều pháp môn nhằm cứu bạt nỗi khổ đau của mọi loài, trong đó khoa nghi trai đàn bạt độ là pháp thức đặc biệt để cứu độ chúng sinh đường ngạ quỷ. Khi thực hiện pháp sự này, nhờ uy lực của “tam mật du-già” mà chúng sinh trong đường ngạ quỷ được an ủi vỗ về bằng những lời kinh tiếng kệ được tán thỉnh lên bằng giọng ai rất tha thiết, thấm đậm tình người, nhưng cũng đầy triết lý mầu nhiệm của Phật pháp thâm sâu, đồng thời họ cũng được dự một bữa tiệc chay no nê sau bao tháng năm đói khát khốn cùng. “Pháp lực bất tư nghì, từ bi vô chướng ngại, thất liệp thập phương, phổ thí châu sa giới”. Sức mạnh của pháp Phật không thể nghĩ bàn, với lòng từ bi không chướng ngại, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, buổi pháp thí trong hội vô giá có thể biến bảy hạt cơm tràn đầy cả mười, làm no đủ cho hằng hà sa số chúng sinh. 4. Kết luận Trai đàn chẩn tế kỳ siêu bạt độ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn. Nó là một hình thức bố thí, gồm cả tài thí lẫn pháp thí. Dĩ nhiên, sự bố thí tài vật trong đàn tràng, mặc dù con mắt phàm tục của người sống thấy chẳng có một chút hư hao, nhưng tất cả đều đã được chúng sinh trong đường ngạ quỷ thụ dụng, và họ thụ dụng bằng phương pháp thức thực và cả tư niệm thực nữa. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là pháp thí. Bởi chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh nhận được tài thí, và chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh thoát khỏi cảnh giới khổ đau, siêu sinh về miền tịnh độ. Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, nhưng trong những chúng sinh ấy, biết đâu chừng có cả ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bà con, bạn bè… của chúng ta? Dù không phải là họ hàng thân thích, thì trên mảnh đất này, biết bao người đã nằm xuống cho chúng ta sống còn? Và dù những chúng sinh ấy không liên hệ gì đến chúng ta, nhưng họ đang đói rách bơ vơ thế kia lẽ nào mình lại ngoảnh mặt làm ngơ ? Cho nên, pháp hội trai đàn bạt độ là một cách để chu tất món nợ ân tình giữa người còn sống với người đã chết. Bao nhiêu oan trái, hận thù vùi chôn dưới lòng đất, chìm sâu dưới đáy biển muôn trùng hay ẩn nấp đâu đó trong tâm hồn của người chết lẫn người sống, thì hôm nay, trong hội vô giá cam lồ này, nguyện nhờ lời kinh tiếng kệ mà hóa giải oan khiên thành tình thương yêu, sự hiểu biết và lòng cảm thông, tha thứ. Xin nguyện biến oan khiên thành ân nghĩa. Ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân của trời đất, ân của đồng loại. Ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp! Ý Nghĩa Trai Đàn Chẩn Tế Cô Hồn Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây. Về hình thức, trai đàn nầy dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Tức bố trí theo một hình thức đơn giản của mạn đà la mandala. Đó là một vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn, và vòng tròn nầy là căn bản vũ trụ luận của Mật Giáo. Thông thường có hai bộ mạn đà la. Kim Cang giới mạn đà la Vajradhàtu-mandala biểu tượng cho trí huệ sở chúng của Phật. Thai tạng giới mạn đà la garbhadhàtu-mandala biểu tượng cho phương tiện độ sanh của Ngài. Mỗi mạn đà la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa giáo. Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau Trước hết, chúng ta nên biết rằng theo quan điểm truyền thống Phật giáo, vũ trụ gồm hai thành phần. Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay các loài hữu tình làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm biểu hiệu cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật. Nhân cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn sắc, thọ tưởng, hành, thức. Chúng tập họp lại thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là uẩn. Thế giới của nhân cách được cấu tạo bởi năm yếu tố, gọi là năm đại địa, thủy, hỏa, phong và không. Trên cơ sở giáo nghĩa nầy, trước hết mạn đà la của Kim cang giới được thiết lập để biểu hiện trí huệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đókim cang được vận dụng như một khái niệm cụ thể hóa yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là kim cang bất hoại thân vajrasauhatanakàya. Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn và năm đại cấu thành. Nhưng tồn tại của Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của Phật trí. Do đó, năm đại tương ứng với năm trí. Và nhân cách của Phật, như là chỉnh thể thống nhất của tồn tại và nhận thức, được biểu hiện thành năm đức Như Lai tương ứng, tức Ngũ Trí Như Lai, hay năm vị Thiền Phật sẽ nói rõ ở phần Ngũ Phương Phật. Sau đây sẽ mô tảsơ lược một trai đàn chẩn tế từ trong ra ngoài Từ trong ra. NỘI ĐÀN 1. Bàn Phật Tại chùa có Chánh điện, tại tư gia có Bàn thờ Phật là nơi Tham Lễ Giác Hoàng 2. Bàn kinh Nơi để nghi thức, chuông mõ, pháp khí. NGOẠI ĐÀN 1. Màn Sư tử tòa Sư tử tòa là chỗ ngồi của Phật. Phật là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ chẳng phải Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ đâu, dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất. . . thì những chỗ đó đều gọi là Sư Tử Tòa. Vậy bức màn Sư Tử Tòa là bức màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật. 2. Bảo Tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt là cô hồn mà tuyên dương Chánh pháp. Theo khoa nghi, trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải cung hành một nghi thức mật pháp rất trang nghiêm. Sau khi cung thỉnh Ngũ Phương Phật xong , vị chủ sám đến đứng trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng ở vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh Vị Gia Trì Sư đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Sau khi vị Gia Trì Sư đáp lại và xin chư Phật cho phép đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống bát nhã bằng động tác vỗ vũ xích, chuông trống bát nhã cử hành, Vị Gia Trì Sư quay về trái đi lên bảo tòa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài. 3. Màn song khai Trước bảo toạ là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo lúc qui định trong khoa nghi. 4. Bàn kim đài Kinh sư ngồi hai bên tả hữu mỗi bên ba hay bốn vị. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có một vài sự đổi thay nhỏ tùy vùng xử dụng tang và mõ. Huế, kinh sư ngồi ghế để đầu trần. Bình Định, kinh sư ngồi xuống chiếu, đầu đội tỳ lư, xử dụng 2 đẩu giống cái tang nhưng không có cán và mõ. Miền nam, kinh sư ngồi ghế đầu trần, xử dụng 2 đẩu và mõ. 5. Bàn Giác Hoa Giác hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời qúa khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có một cô gái Bà la môn, nhơn mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền khiến thần thức của cô gái ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh điạ ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát. 6. Các án Ngũ phương Phật Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo Mật Tông, Ngũ phương Phật là sự phối hợp giữa Ngũ phương, Ngũ Trí, Ngũ Phật, Ngũ Bộ và Ngũ Hành trong Thai Tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Theo sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay trong Trung Khoa Du Già Tập Yếu khắc bản năm Mậu Tý triều Vua Đồng Khánh và bài viết “LỄ THÁNG BẢY cho những oan hồn phiêu bạt” của Thầy Tuệ Sĩ, đàn tràng Chẩn tế tại Việt Nam được cung trần theo Kim Cang Giới Mạn Đà La. Chúng tôi xin trình bày khái quát như sau Kim cang giới mạn đà la là thuyết minh hoạt dụng của trí huệ sai biệt trong lý tính không sai biệt, do đó Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn đà la nầy. Hình dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candramandala. Bên trong hình tròn nầy thiết lập các biểu tượng của năm vị Như Lai. Án Trung ương Chính giữa là vị trí Đức Phật Tỳ Lô Giá Na tức Đại Nhật Như Lai Mahà Vairocana – Tathàgata hiển thân sắc màu vàng, đối diện với bàn Giác Hoa. Đó là Pháp thân Phật Dharmakàya Buddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại àkàzadhàtu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí. Bốn phương chung quanh Ngài Đại Nhật Như Lai là vị trí của bốn đức Như Lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến Bắc mà quý vị trong khoa Chẩn Tế thường nói cho dễ nhớ Tả Đông, Nam. Hữu Tây; Bắc từ trong đi ra theo chiều kim đồng hồ, tức bên tay trái là phương Đông và Nam, bên tay phải là phương Tây và Bắc như sau Án Phương Đông A Súc Phật Akwobhya hay Bất Động Như Lai, hiển sắc thân màu xanh, trở mặt vào án Trung ương với các biểu tượng Phong đại vàyu-dhàtu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn động cơ tạo tác của các loại hữu tình; Đại viên cảnh trí, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. Án Phương Nam Bảo Sanh Phật Ratnasambhava, hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào Trung ương với các biểu tượng Hỏa đại tejo-dhàtu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sanh và thế giới; tưởng uẩn, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; Bình đẳng tánh trí, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. Án PhươngTây A Di Đà Phật Amitabhà, hiển sắc màu trắng, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Thủy đại, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; Diệu quan sát trí, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu, của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. Án Phương Bắc Bất Không Thành Tựu Phật Amoghasiddhi, hiển sắc màu đen, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Địa đại, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn, tác thành thế giới hữu tình; Thành sở tác trí, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sanh. Phía sau Ngũ phương Phật là 1. Bàn Địa Tạng đồng hướng với Trung ương 2. Bàn hộc thực thấp, để đồ cúng Cô hồn 3. Bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng
Miền Trung từ lâu đã được coi là khu vực vất vả khó khăn cho người dân bởi thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Vậy nhưng, vào mỗi dịp năm mới về cũng như khắp nơi trên cả nước, người dân miền Trung ở mọi hoàn cảnh nào thì cũng vẫn náo nức đón Tết theo cách riêng của mình. Tết đến mang cho mọi người dân ở miền Trung một năm mới ấm no và khiến cho họ tạm quên đi cái vất vả khó khăn và cái khí trời mà họ đã trải qua trong một năm cũ. Nơi nào cũng vậy, phong tục Tết của mỗi miền mỗi khác, bạn đã biết gì về phong tục Tết của người miền Trung chưa? Hãy cùng Art Travel tìm hiểu xem nhé! 1. Chợ Tết Chợ Tết được mọi người dân coi là một nét văn hóa rất riêng tại Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn miền Trung. Nhắc đến Tết là không thể nhắc đến chợ hoa. Thời điểm tổ chức chợ Xuân cũng là thời điểm mà mọi người dân đổ xô ra đường chọn lựa cho nhà mình những cây hoa đẹp nhất để đón năm mới. Một chợ hoa xuân ở miền Trung có thể sưu tập đầy đủ bất kỳ loài hoa nào từ Bắc đến Nam với vô số các loại vô cùng đa dạng về màu sắc, phong phú về kiểu dáng. Tuy nhiên cũng giống phương Nam, người miền Trung thường mua về những cây hoa mai vàng rực rỡ trong những ngày đón Tết. Chợ Tết miền Trung luôn tấp nập người mua kẻ bán với không khí nhộn nhịp 2. Mâm Cỗ Người miền Trung ăn cả bánh chưng và bánh tét vào dịp Tết thế nhưng chỉ cúng bánh chưng trong các mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình. Vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu. Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến gồm đủ các thành phần. Dù cho những món ăn không được đa dạng và hấp dẫn nhưng những thói quen và truyền thống đón Tết của người miền Trung cũng rất độc đáo, hấp dẫn và góp phần đa dạng màu sắc ngày Tết nguyên đán của người Việt Nam. Mâm cỗ truyền thống đón Tết độc đáo của người miền Trung >>Xem thêm Lễ hội Pháo hoa Quốc Tế Đà Nẵng 2018 có gì mới? 4 lễ hội lớn tại miền Trung mà bạn không thể bỏ lỡ. Ngũ Quả Người dân quê miền Trung cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, bởi ta đều biết từ lâu miền Trung là miền khó khăn nhất trong các vùng miền Việt Nam. Trong mâm ngũ quả của người miền Trung, chủ yếu là có gì cúng nấy, chỉ cần ta có thành tâm dâng kính tổ tiên. Người miền Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngược lại, người miền Trung sẽ không chưng các loại cam hay quýt bởi người dân tin theo quan niệm "cam đành quýt đoạn". Mâm ngũ quả ngày Tết với quan niệm "cam đành quýt đoạn" của người miền Trung 4. Cúng Ông Táo Trong mâm cơm cúng ông Táo của người miền Trung thường chỉ có xôi, thịt heo luộc và ít hoa quả bởi người dân miền Trung có quan niệm kiêng kị cúng cá chép. Vậy nên, so với các nghi lễ vào ngày Tết của người miền Bắc thì ở miền Trung đơn giản hơn rất nhiều. Sau lễ cúng, ba ông Táo của các gia đình sẽ được thay mới, các ông Táo cũ được đem đi đặt ở một góc đình, miếu hoặc gốc cây đầu làng là những nơi linh thiêng, không ai dám xâm phạm. Thời gian cúng ông Táo tại miền trung là vào ngày 23 tháng Chạp. Mâm cúng ngày lễ tiễn đưa ông táo về trời 5. Ngày cuối cùng của năm Vào ngày cuối cùng của năm là ngày 30 Tết, người dân miền Trung vào buổi sáng sẽ đi đến mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên và mời họ về ăn Tết với con cháu trong nhà. Sau đó sẽ đi sắm sửa những vật dụng cuối năm và làm mâm cúng Tất Niên. Người dân quan niệm rằng vào những ngày cuối năm nên trả hết những món nợ để tránh trường hợp chủ nợ đòi vào đầu năm sẽ mang vận xui đến cho gia đình. Vào chiều 30 Tết, nhà nhà đều làm lễ Tất Niên để tiễn năm cũ đón năm mới. Lễ này thường có một mâm ở bàn thờ gia tiên, một mâm ở giữa nhà và mâm thị thực đặt ở trước cổng. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng cạnh nồi bánh chưng, bánh tét. Lễ cúng tất niên tiễn năm cũ đón năm mới của người miền Trung Miền Trung - Miền đất thân thương và đáng nhớ! BTV Trương Mẫn Vy
Không có quá nhiều sự khác biệt so với những phong tục tập quán khác, phong tục tang lễ của mỗi vùng miền cũng mang trong mình những nét riêng biệt, đặc trưng. Mọi người cùng đọc bài viết dưới đây, để tìm hiểu về phong tục tang lễ của người miền Trung có gì khác so với những miền khác nhé! Phong tục tang lễ hay còn được gọi là lễ tang, đám ma, ma chay… là một trong những nghi thức gồm nhiều lễ nghi mà người còn sống thực hiện đối với người đã khuất, nhằm thể hiện sự kính trọng và nhớ thương đối với họ. Việt Nam là một đất nước với nhiều dân tộc, vùng miền và đa dạng văn hóa. Do đó, ở mỗi vùng miền khác nhau sẽ có những phong tục thực hiện tang lễ khác nhau. Nhìn chung, vẫn sẽ có một vài điểm giống nhau trong quá trình thực hiện đối với phong tục tang lễ của người miền Trung. Phong tục tang lễ của người miền Trung diễn ra như thế nào? Địa phận sinh sống của người miền Trung tại Việt Nam Việt Nam có ba miền địa lý trải dài theo hình chữ S đó là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Trong đó người miền Trung Trung Bộ là những người sinh sống trong các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận cùng một số các tỉnh Tây Nguyên. Trong khu vực miền Trung cũng được chia ra thành ba vùng theo vị trí địa lý là Bắc Trung Bộ gồm Thừa Thiên – Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Duyên hải Nam Trung Bộ gồm Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, TP. Đà Nẵng. Khu vực Tây Nguyên gồm Lâm Đồng, Đăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum. Cần chuẩn bị những gì trong phong tục tang lễ của người miền Trung Rất ít những gia đình nào chuẩn bị trước tang lễ cho người thân của mình. Thường thì gia chủ chỉ có thể quan sát những dấu hiệu của những người đã quá lớn tuổi thông qua những dấu hiệu tuổi già. Nhưng điều này cũng không hoàn toàn chính xác, vì vậy càng chứng tỏ được việc không thể chuẩn bị kỹ càng trước cho bất kỳ một tang lễ nào. Đối với người miền Trung, khi người thân vừa mới mất, họ sẽ nén lại sự đau thương mà chuẩn bị chỉn chu cho tang lễ với những việc như sau Báo tang cho những người trong gia đình, dòng tộc, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp,… Chuẩn bị trang phục cho người đã khuất và những người trong gia đình Tẩm liệm cho người đã mất Lau người, điều chỉnh lại hình thể, một số gia đình còn chỉnh trang lại cho người mất. Chuẩn bị quan tài thường thì theo phong tục tang lễ của người miền Trung khi mua quan tài cho người đã mất sẽ là những loại bằng gỗ có tính chống nước tốt, hình vuông là chủ yêu. Và bên trong quan tài sẽ được tra kỹ lại ở bốn góc bởi nước cơm và đất sét. Bên ngoài quan tài sẽ được trang trí bởi những loại hoa văn đơn giản như hoa sen. Để kiến không bò vào trong quan tài, gia chủ sẽ sử dụng dầu hỏa bôi vào bốn chân ghế đỡ. Phía dưới quan tài sẽ được đặt một dĩa đèn dầu phụng được thắp sáng cả ngày lẫn đêm. Người ta quan niệm rằng, làm việc này sẽ tránh được mùi tử khí tỏa ra. Lập bàn thờ trước khi tiến hành khâm liệm Bàn thờ vong sẽ được đặt ở phía trước cửa. Cho những ai chưa biết, thì bàn thờ vong còn được gọi theo một cái tên khác là cỗ linh sa một chiếc bàn rông. Linh sa sẽ bao gồm Bài vị, ảnh, quý danh, tuổi của người đã khuất và mâm trái cây với các loại như bưởi, chuối. Nếu như người đã mất theo đạo Phật, thì gia chủ cần phải chuẩn bị thêm bàn thờ Phật trước linh tọa Chuẩn bị cơm cúng cơm cúng người đã mất được làm bằng cách ép hai chén cơm chặt vào nhau và cắm một đôi đũa tre, rồi đặt trên đầu người mất. Một số thứ chuẩn bị khác như bông cúng 2 bình thường là hoa cúc, trái cây, nước trà, đồ chay, trà khô, ly để cúng, nhang đèn và quần áo vật dụng cá nhân của người mất. Ngoài ra, đa phần những gia chủ sẽ thuê thêm thầy chùa về làm lễ, thuê những đội người chuyên thổi kèn hát đám ma để cho tang sự được đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Những nghi lễ nào được diễn ra Đầu tiên, sau khi nhập liệm sẽ là lễ thành phục Đây là nghi lễ chịu tang, tất cả những người trong gia đình nội ngoại đều phải được bịt khăn tang. Thông thường, màu của trang phục và khăn tang sẽ là màu trắng. Để phân biệt nội ngoại, thì chắt ngoại sẽ bịt khăn vàng, còn nội sẽ là khăn đỏ. Nếu theo phong tục ngày xưa, nam và nữ sẽ có những kiểu khăn tang khác nhau, nhưng bây giờ thì để đơn giản hóa hơn, gia đình thường sẽ giống nhau về mặt hình thức. Sau lễ này thì mới chính thức phát tang và sau đó sẽ có những người quen, họ hàng, hàng xóm đến phúng viếng. Tiếp theo sẽ là nghi thức Tang gia Lễ này còn được gọi là “Chiêu tịch diện”. Có nghĩa là con cháu vào các buổi trong ngày sẽ thay nhau dâng khăn mặt, bàn chải đánh răng, chậu nước và thức ăn điểm tâm từ nơi người đã khuất thường nằm ra tới linh tọa, vừa đi vừa khóc thật to. Tuy nhiên, nghi lễ này đã dần bị xóa bỏ bởi sự cầu kỳ và không mang tính trang nghiêm. Lễ động quan và di quan Trước ngày di quan, gia đình của người mất thường cả đêm sẽ không ngủ. Mà họ sẽ làm thêm lễ chuyển cửu, quay quan tài một vòng với hàm ý cho vong hồn không còn nhớ đường về nhà nữa. Đến ngày động quan ngày phát dẫn, tang chủ sẽ đặt những tờ tiền dưới ly rượu đầy phía trước nóc áo quan để thưởng cho nhà đoàn, cốt ý muốn cho quá trình di quan diễn ra suôn sẻ. Nghi lễ Tế Đạo Trung Khi đi được một nửa đoạn đường đến nơi chôn cất, đoàn di quan sẽ tạm dừng lại làm lễ tế Độ Trung, mục đích của lễ này diễn ra là để đoàn di quan có thể được nghỉ ngơi, và những người chưa phúng điếu có thể đi điếu được trước khi chôn. Lễ Hạ Huyệt Hạ Khoáng Huyệt chôn người mất sẽ được đào 3 tấc đất 30cm, từ mặt đất đến nắp quan tài khoảng 1 mét, không quá cạn cũng không quá sâu làm xương bị khô hay bị mục. Người ta cho rằng, ba tất đất là nơi đủ tốt với khí âm dương. Lễ trị huyệt trước khi hạ huyệt sẽ đuổi được những vong hồn tà ác núp bên dưới huyệt. Nghi lễ tạ thổ tại nghĩa địa Sau khi hoàn tất quá trình chôn cất, gia chủ chuẩn bị hoa, bánh chuối, quần áo thổ thần để làm lễ tạ thổ. Phong tục hát đám ma Trong phong tục tang lễ của người miền Trung cũng có phong tục hát đám ma. Không khí tại tang lễ vô cùng ảm đạm bởi tiếng đàn nhị thê lương và tiếng kinh tụng trầm buồn. Những chuẩn mực trong tang lễ cần lưu ý Dù biết rằng, đám tang thực sự rất buồn đối với các gia chủ. Nhưng các gia chủ cũng cần thể hiện được sự văn minh trong quá trình tổ chức tang lễ như Không hát đám ma sau 22h đêm đến 6h sáng hôm sau. Có nhiều gia chủ vì quá đau xót mà quên đi những quy tắc chuẩn mực ảnh hưởng nhiều đến đời sống của những người xung quanh. Trong đám tang vái lạy như thế nào là đúng cách? Vái lạy là một hình thức thể hiện sự kính trọng với người đã khuất không riêng gì đối với với phong tục tang lễ của người miền Trung. Đàn ông và đàn bà sẽ có những cách thức vái lạy khác nhau Đàn ông Đứng tư thế nghiệm, chắp hai tay trước ngực, từ từ đưa tay qua trán rồi cúi xuống. Tiếp đến, xòe hai bàn tay úp xuống đất, cúi mình, quỳ gối chân trái và co lên rồi đứng dậy. Đàn bà Sẽ ngồi xuống mặt đất, để hai chân vắt chéo nghiêng về phía bên trái, bàn chân phải để dưới đùi chân bên trái và để ngửa lên trên. Sau đó tư thế vái lạy sẽ như đàn ông, nhưng khi đầu chạm đất sẽ đưa bàn tay đã xòe để lên đầu. Giữ tư thế trong 1 đến hai giây, rồi làm lại một lần nữa. Tang Lễ Hà Nội Tang lễ Hà Nội là một trong những nơi cung cấp những sản phẩm phục vụ tang lễ và dịch vụ hỗ trợ cho gia chủ chất lượng tại thủ đô Hà Nội hiện nay. Với phương châm hoạt động chu đáo nhiệt tình, tận tâm. Chúng tôi sẽ phục vụ tang lễ theo toàn bộ những yêu cầu mà khách hàng đưa ra, đồng thời cũng phù hợp với truyền thống. Sản phẩm đạt chuẩn chất lượng, Chi phí được tối ưu hợp lý, cùng đội ngũ nhân viên phục vụ chuyên nghiệp sẽ là lựa chọn hàng đầu cho khách hàng. Chúng tôi có dịch vụ Tổ chức trọn gói, Tổ chức tại Nhà riêng theo yêu cầu và Tổ chức tại Nhà tang lễ. Ngoài ra còn có Hỏa táng, chôn cất, Lập bàn thờ vong, Cho thuê xe tang lễ và bán đồ phục vụ tang lễ như phục trang, hoa, quách gỗ vàng tâm,… Bài viết trên là những chia sẻ của Tang lễ Hà Nội về phong tục tang lễ của người miền Trung. Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại cũng đã làm thay đổi một số ít về phong tục tang lễ của họ cho bớt rườm rà hơn và càng văn minh hơn. Quan trọng là sự chuẩn bị chu đáo đã thể hiện được sự hiếu đạo của người còn sống với người đã khuất!
nghi thức chẩn tế miền trung